Những
khó khăn trong chẩn đoán và
điều
trị cột sống
Chấn
thương cột sống là tình trạng cột sống hoặc tủy
sống bị thương tổn do chấn
thương
gây ra. Các tai nạn có thể gây ra chấn thương cột sống
gồm có tai nạn lao
động,
tại nạn giao thông, tai nạn sinh hoạt, tai nạn thể thao
và ẩu đả.
Các
kiểu chấn thương bao gồm té cao, vật từ trên cao rớt
trúng người, cơ thể di
động
đập vào một vật đứng yên hoặc một vật di động
đập vào cơ thể. Trong các
kiểu
chấn thương còn bao gồm cả tư thế cột sống của
người bệnh khi chấn thương
cúi
hay ngửa... Tất cả những điều đó tạo nên các cơ chế
chấn thương khác nhau
và
các loại thương tổn khác nhau.
Vì
các thương tổn của cột sống do chấn thương gây ra
thường hay có ở những chỗ
chuyển
tiếp giữa các phần bất động và di động của cột
sống nên những vùng hay
bị
nhất là vùng bản lề gồm có:
Vùng
cổ - sọ, được gọi là cột sống cổ cao, từ xương
chẩm đến hết đốt sống cổ 2.
Vùng
cổ thấp (do vùng trên của cột sống ngực được cố
định chắc chắn bằng hệ
thống
xương sườn, xương đòn, xương bả vai nên toàn bộ các
thương tổn bị đẩy lên
phía
trên), từ đốt sống cổ 3 đến đốt sống ngực 1.
Vùng
lưng - thắt lưng, từ đốt sống ngực 11 đến hết đốt
sống thắt lưng 2.
Thông
thường người ta vẫn chia chấn thương cột sống thành
3 nhóm chính tùy
theo
vị trí gồm có chấn thương cột sống cổ (thương tổn
xảy ra từ đốt sống cổ 1 đến
đốt
sống cổ 7), chấn thương cột sống ngực (hoặc cột
sống lưng, thương tổn xảy ra
từ
đốt sống ngực 1 đến đốt sống ngực 12), chấn thương
cột sống thắt lưng (thương
tổn
xảy ra từ đốt sống thắt lưng 1 đến đốt sống thắt
lưng 5).
Các
trường hợp chấn thương cột sống gây nên các thương
tổn cho các cấu trúc của
cột
sống hoặc xung quanh cột sống, xương có thể bị gãy,
dây chằng có thể bị đứt,
đĩa
đệm có thể bị vỡ, cơ có thể bị dập gây chảy
máu... Các thương tổn này thường
gây
ra tình tạng mất ổn định ở khu vực bị chấn thương,
làm cho người bệnh đau
khi
cử động, các phản ứng hóa học xảy khi có một bộ
phận nào đó bị đụng dập
gây
ra đau cả khi không cử động.
Trường
hợp nặng hơn, các mảnh vỡ hoặc máu chảy ra chèn ép
vào tủy và các dây
thần
kinh gây ra các thương tổn thần kinh có thể rất trầm
trọng. Vì tủy thường trải
dài
từ đốt sống cổ 1 đến đoạn đầu của đốt sống
thắt lưng 2 nên những vùng hay bị
chấn
thương nhất của cột sống đều có thể gây ra các
thương tổn tủy sống. Khi tủy
bị
thương tổn, người bệnh có thể bị tê, mất cảm giác,
yếu hoặc liệt, có thể bí tiểu,
táo
bón kéo dài.
Ngay
lúc chấn thương, nếu tủy bị đụng dập sẽ có một
vùng tủy bị thương tổn,
vùng
này được gọi là vùng thương tổn nguyên phát. Nếu
không có biện pháp kịp
thời
giải quyết được các chèn ép và ngăn chặn các phản
ứng hóa học, vùng xung
quanh
của thương tổn nguyên phát bị phù nề và dần dần bị
hư hỏng vĩnh viễn
luôn,
vùng này được gọi là vùng thương tổn thứ phát.
Theo
các nghiên cứu khoa học chuyên sâu về chấn thương tủy
sống, trong đại đa
số
các trường hợp chấn thương vào tủy sống, vùng thương
tổn nguyên phát thường
rất
nhỏ, chỉ có một số chức năng của tủy bị mất,
trong khi đó vùng thương tổn thứ
phát
thường rất lớn. Làm ảnh hưởng đến hàng loạt chức
năng. Việc tiến hành cứu
chữa
được nhắm vào vùng thương tổn thứ phát vì đại đa
số các thương tổn nguyên
phát
đã không còn có thể hồi phục được.
Mặc
dù thương tổn nguyên phát thường rất nhỏ nhưng đa số
những người bệnh
chấn
thương cột sống có thương tổn tủy sống đều bị
liệt ngay sau chấn thương. Đó
là
do tủy có một phản xạ gọi là sốc tủy. Khi tủy bị
chấn thương, khu vực bị thương
tổn
và xung quanh nó ngưng hoạt động hoàn toàn, làm cho bệnh
nhân bị liệt, mất
cảm
giác, bí tiểu... Hiện tượng sốc tủy kéo dài từ vài
phút đến vài tiếng, vài ngày,
vài
tuần và thậm chí vài tháng, không ai biết tại sao lại
có thời gian rất khác nhau
giữa
người này và người khác. Và như vậy thì sau một thời
gian bị liệt, người
bệnh
phục hồi dần dần. Gia đình cám ơn các bác sĩ và vui
mừng vì bệnh nhân đã
tự
phục vụ được cho bản thân tuy không thể trở về cuộc
sống bình thường. Trong
một
số trường hợp, việc cám ơn đó là đúng nhưng trong
nhiều trường hợp bác sĩ lẽ
ra
đã có thể làm tốt hơn, người bệnh có thể phục hồi
được nhiều hơn và có thể
được
trở về với công việc bình thường. Ngoài ra hiện tượng
phù tủy cũng làm mất
chức
năng tạm thời khu vực tủy bị phù, nếu sự “tạm
thời” này kéo dài thì sẽ trở
nên
vĩnh viễn.
Có
thể nói việc điều trị chấn thương tủy sống gặp
một khó khăn cơ bản, đó là việc
đánh
giá kết quả. Không ai biết thương tổn nguyên phát lớn
đến cỡ nào, như vậy
thì
không thể nói trước là người bệnh sẽ phục hồi đến
mức độ nào, và ở mức độ
mất
chức năng cuối cùng thì người bệnh có bao nhiều phần
là do thương tổn
nguyên
phát gây ra, bao nhiêu phần do thương tổn thứ phát gây
ra. Chỉ có các
nghiên
cứu thật sâu với số lượng bệnh nhân rất lớn thì
người ta mới thấy được là
cần
điều trị như thế nào để mang lại kết quả tốt nhấn
cho người bệnh. Hoa kì là
nước
đi đầu trong những nghiên cứu này, một phần vì họ có
tiền, một phần vì dân
của
họ đông (các nước Bắc Âu cũng nghiên cứu nhưng dân
ít, số lượng bệnh nhân
không
nhiều). Các nghiên cứu đa trung tâm của Hoa kì cho thấy
rằng nếu sơ cứu
đúng
cách, người bệnh bị chấn thương tủy sống được đưa
đến bệnh viện sớm
(trước
8 giờ sau khi chấn thương) và được các bác sĩ cứu
chữa kịp thời, đúng cách
thì
tỉ lệ và mức độ bị thương tổn mất chức năng của
tủy sống sẽ thấp hơn nhiều so
với
trong thực tế. Và sau khi thực hiện nghiêm túc các qui
định của hiệp hội chấn
thương
cột sống Hoa kì, tỉ lệ các thương tổn vĩnh viễn đã
giảm hẳn.
Ở
nước ta, chúng ta không có tiền để làm các nghiên cứu
lớn lao như vậy nhưng
chúng
ta có thể tận hưởng kết quả của những nghiên cứu
đó một cách hoàn toàn
miễn
phí. Thế nhưng việc huấn luyện về sơ cứu, cấp cứu
gần như không có. Ngay
cả
khi bệnh nhân vào bệnh viện trước 8 giờ sau chấn
thương cũng rất hiếm khi
được
điều trị đúng cách. Người viết bài này đã gặp rất,
rất nhiều các khó khăn khi
muốn
đưa một loại thuốc để chống các phản ứng hóa học
có thể làm tăng thể tích
của
vùng thương tổn thứ phát. Ngoài ra, tình trạng quá tải
ở các bệnh viện cũng
làm
cho chất lượng điều trị giảm sút rõ rệt. Các thương
tổn tủy sống được đặt
xuống
dưới các thương tổn não và như vậy khi bệnh nhân đông
quá thì phải chờ,
và
thời gian “vàng” dần dần mất đi. Khác với các
thương tổn chấn thương sọ não
chỉ
cần chụp CTScan là được, các thương tổn tủy sống
phải chụp MRI mới có thể
thấy
được. Nhưng MRI phải đầu tư nhiều tiền, giá thành
cũng cao và việc thiếu
máy
chụp cùng với việc ôm giữ bệnh nhân của các bệnh
viện làm cho việc chẩn
đoán
bị chậm, dẫn đến cứu chữa không kịp thời. Ở một
số trung tâm lớn, đa số
bệnh
nhân chấn thương cột sống cổ khi chụp được phim MRI
thì đã muộn.
Có
thể nói chấn thương cột sống – tủy sống hiện nay
rất cần được quan tâm đúng
mức,
cả từ phía giới chức lãnh đạo đến các nhân viên y
tế, cá nhân người bệnh và
cả
cộng đồng.